Năm 2019, giá bán điều chỉnh giảm sâu nhưng tăng trưởng sản lượng tốt vào Trung Quốc và ASEAN đã giữ đà tăng trưởng cho doanh thu và lợi nhuận của công ty. ANV ghi nhận doanh thu thuần và lợi nhuận trước thuế lần lượt đạt 4.481 tỷ đồng và 831 tỷ đồng, với mức tăng tương ứng 8,8% YoY và 20,4% YoY. Điều chỉnh cho khoản hoàn nhập dự phòng trong năm 2018 và lợi nhuận bất thường từ thanh lý tài sản trong năm 2019, LNTT từ hoạt động cốt lõi năm 2019 đạt 809 tỷ đồng, tăng 25,4% YoY.
Như vậy câu chuyện tăng trưởng của IMP trong các năm tới sẽ xoay quanh kênh ETC và các nhà máy EU-GMP. Chúng tôi ước tính 3 nhà máy IMP2, IMP3, IMP4 khi đạt công suất thiết kế (vào năm 2023 theo dự phóng của chúng tôi) sẽ đóng góp khoảng 2.000 tỷ đồng cho IMP, trong khi 2 nhà máy cũ tiêu chuẩn WHO sẽ duy trì đóng góp 800 tỷ. |
Trên thị trường, giá cp IMP đã tăng 10% so với thời điểm chúng tôi khuyến nghị mua vào T12/2019. Thời điểm này chúng tôi đưa ra khuyến nghị TÍCH LŨY với lợi nhuận kỳ vọng 18%, giá mục tiêu cho IMP trong năm 2020 là 67.000 đồng/cp,
Chúng tôi lặp lại khuyến nghị TÍCH LŨY cổ phiếu DPM với mức giá mục tiêu 13.600 đồng/cp như trong BCCL đầu năm, dựa trên phương pháp chiết khấu dòng tiền và so sánh P/E. Kết hợp với cổ tức 1.000 đồng/cp, tỷ suất sinh lời tương ứng là 17,7% so với giá đóng cửa ngày 03/03/2020.
Kết quả kinh doanh năm 2019 của NKG chưa cho thấy sự cải thiện khi lợi nhuận sau thuế giảm 17,5% còn 47 tỷ đồng, còn tổng sản lượng bán hàng giảm 9%. Đáng lưu ý, NKG đã thu về 254 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế từ việc bán quyền sở hữu tại công ty Nam Kim Corea và nhà máy Nam Kim 1.
Kế hoạch kinh doanh sơ bộ 2020 của NKG là khá tham vọng, nếu so với kết quả đã đạt được trong năm 2019, khi lợi nhuận mục tiêu cao hơn tới 326% so với năm trước, trong khi sản lượng bán hàng mục tiêu chỉ cao hơn 11%. Bên cạnh đó, ban lãnh đạo của NKG cũng kỳ vọng giá HRC sẽ dao động trong khoảng 480-500 USD/tấn và biên gộp sẽ tăng từ mức 2,8% lên 6,0%. Chúng tôi cho rằng trong quý 1/2020, NKG có thể hưởng lợi từ lượng hàng tồn kho giá thấp, được mua vào cuối năm 2019 ở mức 420-430 USD.
Mặc dù không còn các khoản thu nhập bất thường, TCB vẫn đạt được mức tăng trưởng tích cực 20% vào năm 2019 (tương đương tăng trưởng lõi đạt tới 31% so với năm trước). Ngân hàng duy trì tốc dộ tăng trưởng tín dụng cao với việc cân đối giữa cho vay khách hàng và nắm giữ trái phiếu doanh nghiệp để thích nghi với chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng được giao, đồng thời mở rộng NIM nhờ tiết giảm được chi phí vốn. Bên cạnh đó, hiệu quả hoạt động cao và chi phí dự phòng rủi ro thấp đã giúp ngân hàng giữ lại được phần lớn thu nhập. Chúng tôi ước tính tăng trưởng lợi nhuận năm 2020 có thể đạt ít nhất 20%.
CEO hiện tại sẽ rời ngân hàng vào tháng 9 năm 2020. Ngân hàng đã chuẩn bị cho sự thay đổi này từ cuối năm 2019 bằng việc thông qua mô hình phân quyền cho các giám đốc khối tự ra quyết định kinh doanh và vận hành. TCB cho biết vẫn sẽ giữ nguyên chiến lược kinh doanh hiện tại cho giai đoạn tới.
Chúng tôi giữ nguyên mức giá mục tiêu tại mức 28000 đồng/cp, cao hơn 25% so với giá đóng cửa ngày 28/02 (22.250 đồng/cp), theo đó giữ nguyên khuyến nghị MUA đối với TCB.
Quan điểm của chuyên viên: Chúng tôi cho rằng hoạt động kinh doanh của KSB chỉ bị ảnh hưởng nhẹ bởi sự sụt giảm từ đóng góp của mỏ Tân Đông Hiệp do tồn kho từ mỏ này vẫn còn và sự đóng góp từ khu công nghiệp Đất Cuốc. Tuy nhiên về dài hạn, kể từ năm 2021 doanh thu và lợi nhuận từ mỏ Tân Đông Hiệp sẽ giảm đáng kể. Do đó, triển vọng của công ty trong dài hạn sẽ được quyết định bởi khả năng M&A công ty cùng ngành trong thời gian tới. Ngược lại, nợ vay sẽ khiến công ty gặp áp lực về dòng tiền trong ngắn hạn. Giá cổ phiếu hiện này của KSB là 19.150 đồng/cp, giảm 25% so với cuối 2018. PE trượt 12 tháng là 3,6 x, chỉ ở mức tương đương PE năm 2013. Chúng tôi cho rằng PE hiện nay đang phản ánh việc sụt giảm lợi nhuận từ mỏ Tân Đông Hiệp mà chưa phản ánh kỳ vọng về doanh nghiệp trong trường hợp thương vụ M&A thành công.
Năm 2019, giá bán điều chỉnh giảm sâu và xuất khẩu yếu vào thị trường Mỹ đã kéo giảm đáng kể doanh thu và lợi nhuận của công ty. VHC ghi nhận doanh thu thuần và lợi nhuận trước thuế lần lượt đạt 7.867 tỷ đồng và 1.309 tỷ đồng, với mức giảm tương ứng -15% YoY và -22% YoY. Điều chỉnh cho các doanh thu và chi phí tài chính bất thường từ các hoạt động thoái vốn trong năm 2018 và 2019, LNTT từ hoạt động cốt lõi năm 2019 đạt 1.203 tỷ đồng, giảm 32% YoY.
Năm 2019 chứng kiến một năm đầy khó khăn ở tất cả các mảng kinh doanh của LTG khi ngành nông nghiệp không có nhiều diễn biến tích cực cộng với mức độ cạnh tranh ngành ngày càng cao. Do đó, doanh thu và lợi nhuận của LTG đều ghi nhận giảm so với năm 2018. Qua năm 2020, chúng tôi dự kiến 2 mảng thuốc BVTV và hạt giống cây trồng khó có khả năng tăng trưởng do thị trường bão hòa, cạnh tranh tăng cao và những tác động tiêu cực từ dich bệnh Covid-2019 đầu năm 2020 làm giảm nhu cầu gia tăng sản xuất của người nông dân. Trong khi đó, doanh thu mảng gạo sẽ sụt giảm so với năm 2019 khi tập đoàn không còn bán các loại gạo không thương hiệu, nhưng đổi lại biên LNG và tính hiệu quả trong việc kiểm soát gạo tồn kho sẽ được cải thiện.
Theo thống kê của chúng tôi từ 651 doanh nghiệp từ cả hai sàn HSX và HNX, doanh thu và lợi nhuận sau thuế 2019 tăng lần lượt là 9% YoY và 12% YoY. Trong đó, HSX đóng góp tới 93% phần LNST tăng lên của toàn thị trường.
Cụ thể hơn, LNST của HSX 2019 tăng 12% YoY chủ yếu tới từ đóng góp của VHM, CTG, VCB, và VIC. LNST tăng thêm của 4 doanh nghiệp này đóng góp gần 77% LNST tăng thêm trong năm 2019 của sàn HSX, mặc dù DT tăng thêm của 4 doanh nghiệp này chỉ đóng góp vào khoảng 34% tổng DT tăng thêm của HSX
PTB ghi nhận kết quả năm 2019 lần lượt như sau: doanh thu thuần 5.552 tỷ đồng (+18% theo năm) và LNST 435 tỷ đồng (+13% theo năm). Kết quả này phù hợp với kỳ vọng của chúng tôi: 5.552 tỷ đồng doanh thu và 475 tỷ đồng LNST. Theo đó, PTB hoàn thành 95% kế hoạch lợi nhuận cả năm.
SCS ghi nhận kết quả năm 2019 lần lượt như sau: doanh số ròng 748 tỷ đồng (+11% YoY) và LNST 503 tỷ đồng (+15% YoY), kết quả này phù hợp với kỳ vọng của chúng tôi: 753 tỷ đồng doanh số ròng và 502 tỷ đồng LNST.
Ngân hàng mẹ vẫn đóng vai trò là động lực tăng trưởng trong năm 2019 với mức tăng trưởng lợi nhuận cốt lõi đạt 38,2% YoY. Trong khi đó, FE Credit tiếp tục đà hồi phục từ giữa năm với tín dụng tăng trưởng kịch trần 13,8%, NIM mở rộng từ 28,4% lên 31,3%, CIR cải thiện từ 32,1% còn 31,3%, và chi phí dự phòng chỉ tăng vừa phải 15% YoY.
FE Credit vừa được NHNN chấp thuận về mặt nguyên tắc việc chuyển đổi sang công ty cổ phần. Đây là một bước tiến gần hơn tới kế hoạch chào bán cổ phiếu ra công chúng/phát hành riêng lẻ, có thể sẽ hoàn thành trong năm nay. Yếu tố này có thể đóng vai trò là động lực tăng giá cổ phiếu trong thời gian tới.
Từ đầu năm đến nay, cổ phiếu VPB đã tăng giá 40% lên mức 28.050 đồng/cổ phiếu (tương đương PB dự phóng 2020 ở mức 1,2 lần), đạt giá mục tiêu mà chúng tôi đặt ra trong BCCL năm 2020. Dù vậy, xem xét tiềm năng tăng trưởng cao của VPB và động lực từ kế hoạch chào bán FE Credit, chúng tôi nâng giá mục tiêu lên 34.000 đồng/cổ phiếu, cho ra mức sinh lời 21% so với giá thị trường hiện tại. Theo đó, chúng tôi tiếp tục khuyến nghị MUA đối với cổ phiếu này.