Việc sản xuất lốp radial là xu thế tất yếu của ngành săm lốp toàn cầu và ngành săm lốp Việt Nam. Tuy nhiên, quy mô sản xuất, giá cả và chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp sản xuất săm lốp FDI đều vượt trội so với các doanh nghiệp săm lốp nội địa. Vậy nên, xuất khẩu được xem là cơ hội để DRC duy trì đà tăng trưởng của mình. Riêng DRC, các thị trường hiện đang áp dụng các loại thuế nhập khẩu bổ sung nhằm hạn chế sự đổ bộ “ồ ạt” của sản phẩm săm lốp Trung Quốc là những thị trường hiện hữu của DRC, có thể kể ra như Mỹ, Brazil và Ấn Độ. Trong năm 2020, chúng tôi cho rằng DRC sẽ đẩy mạnh quá trình thương thảo với các đối tác châu Âu nhằm tận dụng việc hàng hóa Trung Quốc đang bị hạn chế ở thị trường này cũng như việc giảm thuế nhập khẩu khi Hiệp đinh thương mại tự do Việt Nam – EU có hiệu lực. Nhìn chung, trong ngắn hạn nguồn cầu từ các thị trường hiện hữu như Mỹ và Brazil cũng như thị trường tiềm năng EU sẽ giúp cho nhà máy radial của DRC hoạt dộng với công suất cao nhất, từ đó đảm bảo doanh thu và lợi nhuận của công ty.
Hiện nay, ngày càng nhiều tổ chức điều chỉnh dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam nói riêng và Châu Á nói chung với biên độ dao động lớn và theo chiều hướng đi xuống. Điều này thể hiện hai đặc điểm kinh tế-xã hội, gồm 1) Độ bất định lớn và 2) Triển vọng kinh tế xấu đi. Câu hỏi quan trọng là Chính phủ các nước, bao gồm Việt Nam, sẽ đưa ra biện pháp hỗ trợ tăng trưởng kinh tế như thế nào trong bối cảnh dịch bệnh lây lan mạnh mẽ, căng thẳng thương mại chưa chấm dứt và xung đột địa chính trị âm ỉ. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ đề cập tới một số gói chính sách hỗ trợ tăng trưởng kinh tế của các nước trong khu vực trước khi liên hệ trực tiếp tới Việt Nam.
Năm 2019, tiêu thụ thép trong nước tăng trưởng tương đương với ngành xây dựng, khoảng 9%. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng trong từng phân khúc có sự khác biệt đáng kể. Sản lượng tiêu thụ tôn mạ trong nước tăng trưởng 12,5% nhờ tăng trưởng FDI cao duy trì ở mức 7%. Sản lượng tiêu thụ thép xây dựng nội địa tăng 6,8%, cao hơn một chút so với năm 2018 (6,6%). Đáng chú ý, tốc độ tăng trưởng của tiêu thụ ống thép đã giảm từ 5,7% (2018) xuống chỉ còn 2,3%.
GMD đã công bố kết quả kinh doanh năm 2019 chưa kiểm toán với doanh thu thuần đạt 2.641 tỷ đồng (-2% YoY) và LNTT giảm 68% YoY xuống 705 tỷ đồng do năm ngoái ghi nhận khoản lợi nhuận tài chính lớn từ việc bán vốn mảng logistics. Mức lợi nhuận này thấp hơn so với ước tính của chúng tôi 12% chủ yếu do KQKD Q4/2019 yếu hơn so với kỳ vọng. Mặc dù vậy, công ty vẫn hoàn thành kế hoạch lợi nhuận năm nhờ lợi nhuận từ công ty liên kết tăng trưởng mạnh 80%. |
GMD đang giao dịch ở mức thấp nhất trong ba năm là 19.900 đồng/cổ phiếu, thấp hơn 31% so với giá mục tiêu trong báo cáo Chiến lược 2020 của chúng tôi ở mức 26.000 đồng/cổ phiếu. Trước đó, cho năm 2020, chúng tôi dự báo doanh thu đạt 2.951 tỷ đồng (+12% YoY) và LN ròng đạt 528 tỷ đồng (+3% YoY). Chúng tôi đang xem xét lại dự phóng do kỳ vọng tăng trưởng sản lượng container thông qua hệ thống cảng của GMD tháp hơn so với dự báo trước. Điều này là do (1) GMD mất hãng tàu khách hàng tại Hải Phòng vào cuối năm 2019 và (2) các hoạt động gi
Trong Báo cáo chiến lược năm 2020, chúng tôi cho rằng REE sẽ duy trì mức doanh thu và lợi nhuận tương đương cùng kỳ bởi động lực tăng trưởng tại hầu hết các mảng hoạt động đều đang trong quá trình tích luỹ nền tảng để tăng trưởng mạnh trong vài năm tới. Điều này đang được phản ánh trong hoạt động của doanh nghiệp được chúng tôi cập nhật gần đây:
PVD đã công bố kết quả kinh doanh Q4/2019 với doanh thu đạt 1.389 tỷ đồng, giảm nhẹ 1,2% so với cùng với sự sụt giảm mạnh trong doanh thu thương mại (-78,8%) trong khi doanh thu khoan tăng mạnh (+60%) và doanh thu dịch vụ kỹ thuật đi ngang.
Tập đoàn Hà Đô đã công bố kết quả kinh doanh năm 2019 với doanh thu đạt 4.327 tỷ đồng (tăng 34%) và LNST đạt 842 tỷ đồng (tăng 33%). Theo đó, công ty vượt kế hoạch lợi nhuân cả năm 26%. Đóng góp phần lớn vào kết quả kinh doanh trong năm 2019 vẫn là mảng bất động sản, với tỷ trọng 80%. Phần còn lại chủ yếu đến từ mảng hoạt động chiến lược của công ty, đó là năng lượng. Cụ thể, KQKD tăng nhờ dự án điện mặt trời mới đi vào hoạt động từ tháng 6/2019, Hồng Phong 4 và đẩy mạnh việc bàn giao dự án Centrosa Garden trong năm 2019. Kết quả kinh doanh này phù hợp với dự báo của chúng tôi.
Nhìn chung, trong ngắn hạn rủi ro chính của MSH là việc trì hoãn giao hàng từ các nhà cung cấp vải nguyên liệu tại Trung Quốc dưới ảnh hưởng tiêu cực của dịch Corona khi Trung Quốc vẫn là thị trường cung cấp nguyên liệu vải chính. Nhiều khả năng công ty phải gia tăng chi phí sản xuất, tăng ca làm việc để đáp ứng thời gian sản xuất đầu ra cho các thương hiệu thời trang. Tuy nhiên, đây vẫn là cổ phiếu có nền tảng cơ bản tốt với cổ tức tiền mặt duy trì ở mức cao, giá cổ phiếu cũng đã điều chỉnh khá mạnh kể từ mức đỉnh năm 2019 (chủ yếu do ảnh hưởng từ thương chiến Mỹ - Trung và thông tin cổ đông lớn FPTS đăng ký bán ra), chúng tôi cho rằng nhà đầu tư có thể cân nhắc mua vào khi tình hình dịch bệnh nCoV có những biến chuyển khả quan. Cho cả năm 2020, chúng tôi tiếp tục duy trì khuyến nghị MUA cho MSH với giá mục tiêu 60.000 đồng/cp.
Trong “Báo cáo các rủi ro toàn cầu năm 2020” gần đây phát hành ngày 16/1, cơ quan xếp hạng Moody đã nhấn mạnh hậu quả đối với ổn định xã hội và kinh tế bởi mực nước dâng và nóng lên toàn cầu. Một vài quốc gia được dự báo bị ảnh hưởng nặng hơn, bao gồm Ai Cập, Việt Nam và Surinam. Khi nước biển có thể dâng lên 1 đến 3 mét đến năm 2100, bão và lũ sẽ ngày càng thường xuyên, tác động đến hệ sinh thái của nhiều quốc gia. Các nền kinh tế phát triển như Hà Lan và Nhật Bản được cho là chuẩn bị tốt hơn so với các quốc gia kém phát triển trong việc đối phó với những thử thách này. |
VSC đã công bố KQKD năm 2019 chưa kiểm toán với doanh thu thuần đạt 1.793 tỷ đồng, tăng 6% so với cùng kỳ và LNTT đạt 342 tỷ đồng, giảm 12% so với cùng kỳ. Mặc dù vậy, VSC vẫn vượt 12% kế hoạch LNTT nhờ vào sự khởi sắc trong KQKD quý 4/2019. Theo đó, LNTT quý 4/2019 của VSC đã chứng kiến sự tăng trưởng trở lại, tăng 10% so với cùng kỳ, sau 3 quý liên tiếp tăng trưởng âm, do có sự cải thiện trong tỷ suất lợi nhuận, chí phí lãi vay giảm mạnh, và ghi nhân lợi nhuận khác.
Chúng tôi dự báo triển vọng của MBB sẽ bị ảnh hưởng bởi một số khó khăn chính: (1) tăng NIM phụ thuộc rất lớn vào tài chính tiêu dùng, (2) tăng trưởng thu nhập ròng từ hoạt động bảo hiểm chậm lại nhanh chóng, trong khi tăng trưởng của các khoản phí dịch vụ khác khá hạn chế, và (3) tỷ lệ hình thành nợ xấu cao và tăng trưởng chi phí dự phòng mạnh do khẩu vị rủi ro cao hơn. Trong khi đó, ngân hàng vẫn có một số điểm thuận lợi khi tài chính tiêu dùng dự kiến sẽ còn tiếp tục mở rộng mạnh mẽ, hệ số CASA duy trì ở mức cao và hiệu quả hoạt động được cải thiện. Chúng tôi dự báo rằng những thuận lợi này vẫn đủ khả năng giúp MBB duy trì được tăng trưởng lợi nhuận cao khoảng 25% trong năm 2020.
MBB hiện đang giao dịch ở mức giá 21.150 đồng/cổ phiếu, tương đương với mức PBR dự phóng 2020 khá hấp dẫn là 1,1 lần. Mức giá này thấp hơn 28,0% so với giá mục tiêu của chúng tôi trong Báo cáo chiến lược năm 2020 (27.000 đồng). Chúng tôi vẫn đặt khuyến nghị MUA đối với cổ phiếu này.
Sản lượng tôm thế giới phục hồi mạnh từ năm 2017 nhờ thời tiết tốt và diện tích nuôi tăng, bên cạnh các nỗ lực cải cách nuôi trồng mạnh mẽ ở một số quốc gia. Dư cung đã tạo áp lực lên giá xuất khẩu. Giá xuất khẩu năm 2018 và 2019 đã chạm đáy kể từ năm 2014 vào các tháng 6, 7 khi các nước vào mùa thu hoạch vụ nuôi chính. Giá cũng duy trì ở mức thấp đến nay và chưa có dấu hiệu hồi phục rõ nét.