Năm 2019 chứng kiến một năm đầy khó khăn ở tất cả các mảng kinh doanh của LTG khi ngành nông nghiệp không có nhiều diễn biến tích cực cộng với mức độ cạnh tranh ngành ngày càng cao. Do đó, doanh thu và lợi nhuận của LTG đều ghi nhận giảm so với năm 2018. Qua năm 2020, chúng tôi dự kiến 2 mảng thuốc BVTV và hạt giống cây trồng khó có khả năng tăng trưởng do thị trường bão hòa, cạnh tranh tăng cao và những tác động tiêu cực từ dich bệnh Covid-2019 đầu năm 2020 làm giảm nhu cầu gia tăng sản xuất của người nông dân. Trong khi đó, doanh thu mảng gạo sẽ sụt giảm so với năm 2019 khi tập đoàn không còn bán các loại gạo không thương hiệu, nhưng đổi lại biên LNG và tính hiệu quả trong việc kiểm soát gạo tồn kho sẽ được cải thiện.
Theo thống kê của chúng tôi từ 651 doanh nghiệp từ cả hai sàn HSX và HNX, doanh thu và lợi nhuận sau thuế 2019 tăng lần lượt là 9% YoY và 12% YoY. Trong đó, HSX đóng góp tới 93% phần LNST tăng lên của toàn thị trường.
Cụ thể hơn, LNST của HSX 2019 tăng 12% YoY chủ yếu tới từ đóng góp của VHM, CTG, VCB, và VIC. LNST tăng thêm của 4 doanh nghiệp này đóng góp gần 77% LNST tăng thêm trong năm 2019 của sàn HSX, mặc dù DT tăng thêm của 4 doanh nghiệp này chỉ đóng góp vào khoảng 34% tổng DT tăng thêm của HSX
PTB ghi nhận kết quả năm 2019 lần lượt như sau: doanh thu thuần 5.552 tỷ đồng (+18% theo năm) và LNST 435 tỷ đồng (+13% theo năm). Kết quả này phù hợp với kỳ vọng của chúng tôi: 5.552 tỷ đồng doanh thu và 475 tỷ đồng LNST. Theo đó, PTB hoàn thành 95% kế hoạch lợi nhuận cả năm.
SCS ghi nhận kết quả năm 2019 lần lượt như sau: doanh số ròng 748 tỷ đồng (+11% YoY) và LNST 503 tỷ đồng (+15% YoY), kết quả này phù hợp với kỳ vọng của chúng tôi: 753 tỷ đồng doanh số ròng và 502 tỷ đồng LNST.
Ngân hàng mẹ vẫn đóng vai trò là động lực tăng trưởng trong năm 2019 với mức tăng trưởng lợi nhuận cốt lõi đạt 38,2% YoY. Trong khi đó, FE Credit tiếp tục đà hồi phục từ giữa năm với tín dụng tăng trưởng kịch trần 13,8%, NIM mở rộng từ 28,4% lên 31,3%, CIR cải thiện từ 32,1% còn 31,3%, và chi phí dự phòng chỉ tăng vừa phải 15% YoY.
FE Credit vừa được NHNN chấp thuận về mặt nguyên tắc việc chuyển đổi sang công ty cổ phần. Đây là một bước tiến gần hơn tới kế hoạch chào bán cổ phiếu ra công chúng/phát hành riêng lẻ, có thể sẽ hoàn thành trong năm nay. Yếu tố này có thể đóng vai trò là động lực tăng giá cổ phiếu trong thời gian tới.
Từ đầu năm đến nay, cổ phiếu VPB đã tăng giá 40% lên mức 28.050 đồng/cổ phiếu (tương đương PB dự phóng 2020 ở mức 1,2 lần), đạt giá mục tiêu mà chúng tôi đặt ra trong BCCL năm 2020. Dù vậy, xem xét tiềm năng tăng trưởng cao của VPB và động lực từ kế hoạch chào bán FE Credit, chúng tôi nâng giá mục tiêu lên 34.000 đồng/cổ phiếu, cho ra mức sinh lời 21% so với giá thị trường hiện tại. Theo đó, chúng tôi tiếp tục khuyến nghị MUA đối với cổ phiếu này.
Việc sản xuất lốp radial là xu thế tất yếu của ngành săm lốp toàn cầu và ngành săm lốp Việt Nam. Tuy nhiên, quy mô sản xuất, giá cả và chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp sản xuất săm lốp FDI đều vượt trội so với các doanh nghiệp săm lốp nội địa. Vậy nên, xuất khẩu được xem là cơ hội để DRC duy trì đà tăng trưởng của mình. Riêng DRC, các thị trường hiện đang áp dụng các loại thuế nhập khẩu bổ sung nhằm hạn chế sự đổ bộ “ồ ạt” của sản phẩm săm lốp Trung Quốc là những thị trường hiện hữu của DRC, có thể kể ra như Mỹ, Brazil và Ấn Độ. Trong năm 2020, chúng tôi cho rằng DRC sẽ đẩy mạnh quá trình thương thảo với các đối tác châu Âu nhằm tận dụng việc hàng hóa Trung Quốc đang bị hạn chế ở thị trường này cũng như việc giảm thuế nhập khẩu khi Hiệp đinh thương mại tự do Việt Nam – EU có hiệu lực. Nhìn chung, trong ngắn hạn nguồn cầu từ các thị trường hiện hữu như Mỹ và Brazil cũng như thị trường tiềm năng EU sẽ giúp cho nhà máy radial của DRC hoạt dộng với công suất cao nhất, từ đó đảm bảo doanh thu và lợi nhuận của công ty.
Hiện nay, ngày càng nhiều tổ chức điều chỉnh dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam nói riêng và Châu Á nói chung với biên độ dao động lớn và theo chiều hướng đi xuống. Điều này thể hiện hai đặc điểm kinh tế-xã hội, gồm 1) Độ bất định lớn và 2) Triển vọng kinh tế xấu đi. Câu hỏi quan trọng là Chính phủ các nước, bao gồm Việt Nam, sẽ đưa ra biện pháp hỗ trợ tăng trưởng kinh tế như thế nào trong bối cảnh dịch bệnh lây lan mạnh mẽ, căng thẳng thương mại chưa chấm dứt và xung đột địa chính trị âm ỉ. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ đề cập tới một số gói chính sách hỗ trợ tăng trưởng kinh tế của các nước trong khu vực trước khi liên hệ trực tiếp tới Việt Nam.
Năm 2019, tiêu thụ thép trong nước tăng trưởng tương đương với ngành xây dựng, khoảng 9%. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng trong từng phân khúc có sự khác biệt đáng kể. Sản lượng tiêu thụ tôn mạ trong nước tăng trưởng 12,5% nhờ tăng trưởng FDI cao duy trì ở mức 7%. Sản lượng tiêu thụ thép xây dựng nội địa tăng 6,8%, cao hơn một chút so với năm 2018 (6,6%). Đáng chú ý, tốc độ tăng trưởng của tiêu thụ ống thép đã giảm từ 5,7% (2018) xuống chỉ còn 2,3%.
GMD đã công bố kết quả kinh doanh năm 2019 chưa kiểm toán với doanh thu thuần đạt 2.641 tỷ đồng (-2% YoY) và LNTT giảm 68% YoY xuống 705 tỷ đồng do năm ngoái ghi nhận khoản lợi nhuận tài chính lớn từ việc bán vốn mảng logistics. Mức lợi nhuận này thấp hơn so với ước tính của chúng tôi 12% chủ yếu do KQKD Q4/2019 yếu hơn so với kỳ vọng. Mặc dù vậy, công ty vẫn hoàn thành kế hoạch lợi nhuận năm nhờ lợi nhuận từ công ty liên kết tăng trưởng mạnh 80%. |
GMD đang giao dịch ở mức thấp nhất trong ba năm là 19.900 đồng/cổ phiếu, thấp hơn 31% so với giá mục tiêu trong báo cáo Chiến lược 2020 của chúng tôi ở mức 26.000 đồng/cổ phiếu. Trước đó, cho năm 2020, chúng tôi dự báo doanh thu đạt 2.951 tỷ đồng (+12% YoY) và LN ròng đạt 528 tỷ đồng (+3% YoY). Chúng tôi đang xem xét lại dự phóng do kỳ vọng tăng trưởng sản lượng container thông qua hệ thống cảng của GMD tháp hơn so với dự báo trước. Điều này là do (1) GMD mất hãng tàu khách hàng tại Hải Phòng vào cuối năm 2019 và (2) các hoạt động gi
Trong Báo cáo chiến lược năm 2020, chúng tôi cho rằng REE sẽ duy trì mức doanh thu và lợi nhuận tương đương cùng kỳ bởi động lực tăng trưởng tại hầu hết các mảng hoạt động đều đang trong quá trình tích luỹ nền tảng để tăng trưởng mạnh trong vài năm tới. Điều này đang được phản ánh trong hoạt động của doanh nghiệp được chúng tôi cập nhật gần đây:
PVD đã công bố kết quả kinh doanh Q4/2019 với doanh thu đạt 1.389 tỷ đồng, giảm nhẹ 1,2% so với cùng với sự sụt giảm mạnh trong doanh thu thương mại (-78,8%) trong khi doanh thu khoan tăng mạnh (+60%) và doanh thu dịch vụ kỹ thuật đi ngang.
Tập đoàn Hà Đô đã công bố kết quả kinh doanh năm 2019 với doanh thu đạt 4.327 tỷ đồng (tăng 34%) và LNST đạt 842 tỷ đồng (tăng 33%). Theo đó, công ty vượt kế hoạch lợi nhuân cả năm 26%. Đóng góp phần lớn vào kết quả kinh doanh trong năm 2019 vẫn là mảng bất động sản, với tỷ trọng 80%. Phần còn lại chủ yếu đến từ mảng hoạt động chiến lược của công ty, đó là năng lượng. Cụ thể, KQKD tăng nhờ dự án điện mặt trời mới đi vào hoạt động từ tháng 6/2019, Hồng Phong 4 và đẩy mạnh việc bàn giao dự án Centrosa Garden trong năm 2019. Kết quả kinh doanh này phù hợp với dự báo của chúng tôi.