Sự phục hồi trong kết quả Q3, đặc biệt là vào tháng 9, đã cho thấy triển vọng tích cực. Nhu cầu thị trường đối với trang sức đang phục hồi và sự cố ERP cũng đã được giải quyết hoàn toàn. Chúng tôi kỳ vọng PNJ sẽ có kết quả tốt trong Q4 mặc dù sẽ là thách thức đối với công ty để hoàn thành mục tiêu tăng trưởng lợi nhuận ròng 23% trong năm nay. Cổ phiếu PNJ đang giao dịch ở mức P/E trượt 17 lần, không rẻ so với tăng trưởng EPS dự báo của chúng tôi trong năm nay là khoảng 20%. Do đó, mức sinh lợi kỳ vọng của cổ phiếu sẽ đến từ tăng trưởng thu nhập dự kiến trong những năm tiếp theo mà chúng tôi tin rằng sẽ rất khả quan khi xem xét thị trường trang sức cực kỳ phân mảnh hiện tại và PNJ là công ty dẫn đầu tuyệt đối trên thị trường. Khả năng xuất hiện trong chỉ số VN Diamond – Index cũng có thể là chất xúc tác cho cổ phiếu. Chúng tôi duy trì khuyến nghị MUA đối với PNJ, với giá mục tiêu trong vòng 12 tháng là 105.000 đồng/cp, cùng với cổ tức tiền mặt 2.000 đồng/cp cho ra mức sinh lợi kỳ vọng 30% so với giá thị trường hiện tại.
Dù sợi nguyên sinh tiếp tục gặp khó khăn do ảnh hưởng tiêu cực của thương chiến bao trùm lên toàn ngành sợi, chúng tôi đánh giá cao việc STK tiếp tục tăng được đơn hàng tiêu thụ sợi tái chế để cải thiện biên lợi nhuận. Với xu hướng tiêu dùng xanh đang trỗi dậy mạnh mẽ trong thời gian gần đây, chúng tôi cho rằng sợi tái chế sẽ vẫn giữ được đà tăng trưởng khả quan. Thêm vào đó, các nhà máy hiện hữu của STK có thể chuyển đổi từ sản xuất sợi nguyên sinh sang chạy 100% sợi tái chế nếu tăng được số lượng đơn hàng. Đây sẽ là ưu thế giúp công ty trụ vững bên cạnh khó khăn chung của toàn ngành. Cho năm 2019, Rong Viet Securities tiếp tục duy trì khuyến nghị MUA cho STK với giá mục tiêu 24.000 đồng/cp.
Hiệp định Thương mại tự do EU – Việt Nam (EVFTA), được kỳ vọng sẽ có hiệu lực từ giữa năm 2020, sẽ là một chất xúc tác quan trọng cho tăng trưởng xuất khẩu tôm Việt Nam mà chủ yếu là tôm nguyên liệu trong các năm tới.
Nhìn chung, chúng tôi dự kiến sẽ điều chỉnh giảm giá mục tiêu cho TCM trong báo cáo phát hành lần tới so với mức giá 28.000 đồng/cp trong báo cáo cập nhật trước đó, do những lo ngại về (1) mảng sợi cotton chưa cho thấy dấu hiệu hồi phục, (2) công ty chưa công bố kế hoạch mở rộng công suất trong ngắn hạn khi các nhà máy đang vận hành tối đa công suất thiết kế, (3) rủi ro công nợ với hai khách hàng lớn khi công ty vẫn chưa tìm kiếm được đơn hàng đủ lớn để thay thế, (4) kế hoạch di dời nhà máy từ KCN Tân Bình xuống Vĩnh Long trong trung hạn khiến chúng tôi quan ngại về việc giảm năng suất lao động của công nhân may, nhiều khả năng công ty phải tuyển dụng lực lượng lao động tại đây so với lực lượng lao động ổn định, lành nghề tại HCM.
Chúng tôi gần đây có cuộc trao đổi với ban lãnh đạo công ty và dưới đây là một số điểm chính:
Tỷ lệ cổ tức của chỉ số S&P 500 đang khoảng 1,89%, lần đầu tiên cao hơn lợi tức TPCP Mỹ 10 năm (1,69)% kể từ năm 2016. Điều này thường chỉ ra rằng cổ phiếu sẽ diễn biến tốt hơn phiếu trong 12 tháng tới, thực tế cho thấy tỉ lệ này khoảng 94%.
Trong khi ngành điện còn thiếu hụt công suất để phục vụ nhu cầu trong nước, phải huy động công suất nhiệt điện than, nhiệt điện khí và thiếu than trở thành vấn đề của toàn ngành, Nhiệt điện Hải Phòng (HND) vẫn duy trì hoạt động ổn định. KQKD 9T2019 công bố bao gồm sản lượng 5,9 tỷ kWh (hoàn thành 76% kế hoạch năm, +1% so với cùng kỳ); doanh thu đạt 8.080 tỷ đồng (+15% so với cùng kỳ), lợi nhuận đạt 607 tỷ đồng.
Dù các doanh nghiệp đang cố gắng đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, chuyển dịch sang Thái Lan, Brazil, Nhật Bản,… tuy nhiên tỷ trọng xuất khẩu tại các thị trường này vẫn còn khá nhỏ so sánh với quy mô từ Trung Quốc. Do đó trong ngắn hạn các doanh nghiệp sản xuất sợi, đặc biệt là sợi bông sẽ tiếp tục đối mặt với những khó khăn. Tuy vậy, chúng tôi kỳ vọng khi thị trường phục hồi trở lại, lượng tồn kho sợi tại Trung Quốc đã được giải phóng thì các nhà sản xuất vải sẽ tiếp tục đặt hàng để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi đó, lợi thế sẽ dành phần nhiều cho những doanh nghiệp có quy mô sản xuất lớn và sản xuất những sản phẩm sợi chất lượng cao đang hạn chế về nguồn cung trên thị trường.
Ngân hàng mẹ MBB đạt mức tăng trưởng tích cực 41,2% trong thu nhập hoạt động và 39,2% trong LNTT vào Q32019 (nhờ đó nâng tăng trưởng lợi nhuận từ mức 22,5% trong 6 tháng đầu năm lên 28,5% trong 9 tháng). Nếu không tính thu nhập được chuyển về từ các công ty con, tăng trưởng lợi nhuận thực tế đạt 29,6% cho Quý 3 và 23,0% cho 9 tháng đầu năm. Mức tăng trưởng này chủ yếu nhờ động lực từ thu nhập mua bán chứng khoán và thu hồi nợ đã xử lý thay vì tăng trưởng lãi ròng. Trong khi đó, chi phí hoạt động và chi phí dự phòng tiếp tục tăng nhanh. Với kết quả này của ngân hàng mẹ, chúng tôi cho rằng tăng trưởng lợi nhuận hợp nhất vẫn sẽ đến nhiều hơn từ hoạt động kinh doanh bảo hiểm và tài chính tiêu dùng, mặc dù áp lực về chi phí hoạt động và chi phí dự phòng tại các công ty con dự kiến cũng sẽ lớn hơn so với ngân hàng mẹ.
Vào tháng 9, MBB đã tiến hành trả cổ tức bằng cổ phiếu 8%, cũng như công bố việc sẽ phát hành 43,2 triệu cổ phiếu ESOP (2% vốn điều lệ) vào tháng 9 và tháng 10. Ngân hàng vẫn đang tiến hành kế hoạch phát hành 141 triệu cổ phiếu (5,63% vốn điều lệ sau phát hành) và 47 triệu cổ phiếu quỹ (1,87% vốn điều lệ sau phát hành), dự kiến hoàn thành vào cuối Q4/2019.
MBB hiện đang giao dịch ở mức 23.350 đồng, tương đương với mức PB dự phóng 2019 l&am
Tăng trưởng kinh tế quý III tích cực góp phần vào kỷ lục tăng trưởng 9 tháng cao nhất trong 9 năm qua của Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ số PMI và chỉ số sản xuất công nghiệp so với tháng trước đó cho thấy hoạt động sản xuất đang chậm lại trong tháng Chín.
PMI và IPI MOM tháng Chín giảm nhưng chưa đáng lo ngại
Chúng tôi nhận thấy nguyên nhân chính dẫn đến việc chỉ số PMI và chỉ số sản xuất (IPI) MoM giảm là do hoạt động sản xuất trong tháng Bảy và tháng Tám ở mức cao. Trong hai tháng này, mặc dù hoạt động ngành khai khoáng tiếp tục giảm, chỉ số sản xuất công nghiệp được duy trì nhờ tăng trưởng của ngành công nghiệp chế biến chế tạo (CNCBCT). Trong đó, đóng góp đáng kể nhất là từ hoạt động sản xuất điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học. Kết quả này khá tương đồng với hoạt động xuất khẩu các mặt hàng điện tử trong quý III.
Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng hoạt động sản xuất công nghiệp vẫn được duy trì so với cùng kỳ năm trước trong tháng Chín khi tăng trưởng đạt 10.2%. Bởi vì chỉ số sản xuất ngành khai khoáng YoY giảm 6.6%. Trong khi đó ngành đóng góp chính, công nghiệp chế biến chế tạo, tăng 12.3% YoY cao hơn tháng Bảy và tháng tháng Tám.
Tổng dung lượng thị trường gần như không thay đổi đổi: tốc độ tăng trưởng chung của thị trường bị kéo giảm bởi sản lượng container nội địa trong khi tốc độ tăng trưởng của sản lượng container xuất nhập khẩu duy trì tích cực
Theo số liệu của Cảng vụ Hải Phòng, tổng sản lượng container thông qua của thành phố 9T 2019 đạt 3,6 triệu TEU, đi ngang so với cùng kỳ. Tuy nhiên, trong đó, sản lượng container XNK tiếp tục giữ mức tăng trưởng ổn định 9% YoY, đạt 2,7 triệu TEU. Nhìn chung, các cảng tăng được thị phần bao gồm các cảng của PHP và cảng nước sâu HICT ở Lạch Huyện (mới đi vào hoạt động năm 2018), còn sản lượng tại các cảng khác bị giảm hoặc đi ngang so với cùng kỳ.
Tháng 10 được nhớ đến như là tháng tệ nhất trong năm đối với thị trường chứng khoán (Tính thời vụ). Tuy nhiên, theo số liệu đây được xem là một trong những tháng tốt nhất của thị trường chứng khoán về mặt tổng lợi nhuận. Liệu điều này sẽ duy trì trong năm nay?